Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 18/04/2024 12:17 (GMT +7)
Bốn lần toà xử vẫn chưa “thông”
Thứ 4, 05/06/2013 | 05:19:23 [GMT +7] A A
Bản án số 28-/2012/DS-PT của Toà án Nhân dân (TAND) tỉnh xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là anh Nguyễn Đức Thành, có địa chỉ tại tổ 9, khu 3, phường Bãi Cháy với bị đơn là hai chị em ruột Nguyễn Thị Lương và Nguyễn Thị Tuyên cùng trú tại tổ 11, khu 5, phường Hà Tu (TP Hạ Long) là lần xét xử thứ 4 của các cấp toà án Quảng Ninh.
Nội dung vụ án như sau: Theo nguyên đơn là anh Nguyễn Đức Thành trình bày, năm 1984 anh được UBND TX Hồng Gai (nay là TP Hạ Long) cấp 240m2 đất để xây dựng nhà ở theo giấy phép xây dựng nhà ở số 257. Sau khi được giao đất, anh đã làm nhà cấp 4 để ở nhưng bị đổ. Đồng thời do ông Nguyễn Văn Khảng (anh trai chị Tuyên và chị Lương) lấn chiếm, cản trở không cho sử dụng, anh đã nhiều lần đề nghị UBND phường Hà Tu giải quyết nhưng không thành. Do vậy anh đã khởi kiện ra TAND TP Hạ Long yêu cầu chị Tuyên, chị Lương trả lại 240m2 đất đúng như trong giấy phép xây dựng đã được cấp.
Ảnh minh họa. (nguồn Internet) |
Tuy nhiên, bên bị đơn là hai chị em Nguyễn Thị Lương và Nguyễn Thị Tuyên lại trình bày rằng diện tích đất các chị đang sử dụng là do anh trai khai hoang từ năm 1977. Năm 1984, anh Khảng cho chị Lương một phần đất; năm 1993 tiếp tục cho chị Tuyên một phần diện tích đất khai hoang để sử dụng. Vì là đất khai phá nên không có giấy tờ. Từ năm 1984 đến nay chị Lương, chị Tuyên sử dụng ổn định đất anh Khảng cho và đã san gạt đồi hạ độ cao, xây nhà 2 tầng kiên cố cùng các công trình phụ khác và trồng cây cối. Hàng năm đều kê khai, đóng thuế sử dụng đất đầy đủ và đứng tên chủ sử dụng đất trên bản đồ địa chính của thành phố. Năm 2001, QL18A được mở rộng, khi lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng, gia đình chị Lương, chị Tuyên được đưa vào diện đền bù và nhận tiền đền bù, anh Thành cũng không được nhận số tiền trên. Sau khi được cho đất chị Lương, chị Tuyên đã đầu tư nhiều công sức, tiền của để tôn tạo mặt bằng, trồng cây cối và sống bình yên tại đây. Mãi đến năm 1995, anh Thành đến tranh chấp 240m2 đất và xuất trình “Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở” số 257 cấp ngày 6-4-1984 của UBND TX Hồng Gai. Giấy phép có nội dung: Cho phép anh Nguyễn Đức Thành làm nhà ở cấp 4 trên diện tích đất 240m2 tại Dốc Khế, phường Hà Tu có vị trí Đông giáp thung lũng, Tây giáp ông Khảng, Nam giáp đường 18A, Bắc giáp sườn đồi. Trong giấy phép cũng quy định rõ: “Khi làm nhà phải báo cho khu phố thị trấn biết trước khi khởi công, phải báo Ban công nghiệp thị xã đến cắm mốc mới được khai thác đất làm nhà. Giấy phép này sau 6 tháng kể từ ngày ký mà không sử dụng đất và xây dựng nhà ở thì không còn giá trị. Người được cấp giấy phép này phải thi hành đúng những điều quy định trên. Nếu sai hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Qua tìm hiểu được biết sau khi có tranh chấp, UBND phường Hà Tu đã giải quyết tranh chấp, xác định giấy phép xây dựng của anh Thành không có giá trị vì trong nội dung giấy phép ghi rõ “sau 6 tháng kể từ ngày ký mà không sử dụng đất và xây dựng nhà ở thì không còn giá trị”. Trước đây vụ việc này đã được TAND TP Hạ Long xử sơ thẩm lần thứ nhất vào tháng 1-2008, đã phán quyết: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đức Thành; buộc hai chị Tuyên, Lương phải tháo dỡ phần tài sản trên đất và trả lại 240m2 đất cho anh Thành. Sau khi có đơn kháng cáo của bị đơn, ngày 16-5-2008, TAND tỉnh xử phúc thẩm đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau khi TAND Tối cao quyết định huỷ 2 bản án do TAND TP Hạ Long và TAND tỉnh để xử lại. Đến tháng 5-2011, TAND TP Hạ Long xử lại đã quyết định: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc hai chị em Tuyên, Lương phải trả cho anh Thành 480 triệu đồng”... Lần này cả hai bên nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo, vì thế đến ngày 20-9-2012, TAND tỉnh đã xử phúc thẩm và quyết định: “Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Thành, buộc hai chị Tuyên, Lương trả cho anh Thành 2,4 tỷ đồng theo giá trị đất trên thị trường”.
Vậy là qua 4 lần xét xử, TAND TP Hạ Long và TAND tỉnh vẫn tuyên việc khởi kiện của anh Thành là đúng và buộc hai chị Tuyên, Lương phải trả lại đất hoặc bồi thường tiền đất cho anh Thành. Chỉ khác năm 2011, TAND TP Hạ Long tuyên hai chị em phải trả cho anh Thành 480 triệu đồng, thì TAND tỉnh đã tuyên số tiền bồi thường tăng lên gấp 5 lần.
TAND tỉnh đã căn cứ vào giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 6-4-1984 do UBND TX Hồng Gai cấp cho anh Thành và xác nhận của một số nhân chứng cho rằng anh Thành đã xây dựng nhà trên đất, tuy nhiên do gia đình anh Khảng ngăn cản không cho xây nên anh Thành không xây được, vì vậy toà cho rằng anh Thành không thực hiện được quyền sử dụng đất là hoàn toàn khách quan. Tuy nhiên, về phía hai chị Tuyên, Lương cũng có những chứng cứ khá thuyết phục, đó là đất có tranh chấp nằm trên thửa 54 và một phần thửa 31, tờ bản đồ địa chính số 53 phường Hà Tu (TP Hạ Long) lập năm 2000. Người đứng tên chủ sử dụng thửa đất số 54 là anh Nguyễn Văn Thức (em chị Tuyên); anh Hạo và chị Lương cùng đứng tên chủ sử dụng thửa đất số 31 (vì khi lập bản đồ năm 2000, hai gia đình chị Lương và anh Hạo tranh chấp nên chưa xác định được ranh giới).
Tại các tài liệu lưu giữ ở phường Hà Tu cũng như xác nhận của tổ dân, khu phố cho thấy, anh Nguyễn Văn Khảng (là anh trai của chị Lương, chị Tuyên) đã đến khu đất có tranh chấp trên để khai hoang đất đồi hoang và đứng tên trên sổ địa chính cùng với anh Hạo là đất liền kề từ những năm 1977. Như vậy có thể thấy, anh Thành không kê khai việc sử dụng đất trong các thời kỳ theo quy định của Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993. Và anh Thành cũng không đứng tên trên bản đồ địa chính và sổ địa chính của địa phương, năm 2000 địa phương đo đạc đất, xác định ranh giới, mốc giới để lập bản đồ địa chính anh cũng không có ý kiến gì. Theo khoản 1, điều 50 Luật Đất đai thì điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính (trong trường hợp này hai chị Tuyên, Lương đều có tên trong sổ địa chính, và đều thực hiện nghĩa vụ tài chính).
Vấn đề đặt ra ở đây, nếu diện tích đất trên thuộc về anh Thành thì tại sao những năm 1984 đến 1995 anh không có biện pháp kiên quyết để đòi lại (lẽ ra khi xảy ra tranh chấp giữa anh Thành và ông Khảng, nếu UBND phường Hà Tu không giải quyết được thì phải tiếp tục đề nghị UBND TP Hạ Long giải quyết, nhưng anh Thành đã bỏ lửng, dẫn đến gia đình chị Tuyên, chị Lương đã xây dựng nhà kiên cố trên phần đất trên). Trách nhiệm này thuộc về anh Thành và cả về phía chính quyền cơ sở đã không dứt khoát trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Mặt khác, tại phán quyết của TAND tỉnh đã thiên về những chứng cứ có lợi cho anh Thành mà quên đi quyền lợi của gia đình chị Tuyên, Lương. Rõ ràng gia đình hai chị đã ở trên mảnh đất trên 30 năm, đã đóng thuế sử dụng đất và có tên trong sổ địa chính phường, đã có công sức để cải tạo, tôn tạo mảnh đất đó. Nếu xét điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì anh Thành và hai chị Tuyên, Lương đều có điều kiện ngang nhau. Chưa kể, TAND tỉnh căn cứ vào công văn của Phòng Tài chính kế hoạch TP Hạ Long cung cấp giá đất chuyển nhượng tại khu vực đất đang tranh chấp là 10 triệu đồng/m2 để định giá buộc gia đình chị Tuyên, Lương phải trả cho anh Thành là thiếu chính xác. Việc định giá đất phải được tiến hành trên cơ sở khảo sát thực tế tại thời điểm cụ thể, vì theo phản ánh của nhiều người dân tại khu vực trên, giá đất thực tế tại khu vực này không có giá trị như vậy.
Và việc TAND tỉnh xử buộc chị Tuyên, Lương phải trả cho anh Thành 2,4 tỷ đồng đang có nguy cơ đẩy 2 gia đình ra đường vì với hoàn cảnh hiện nay của họ nếu buộc phải trả cho anh Thành số tiền trên thì rất khó khăn. Dẫu biết rằng luật pháp vô tình, nhưng cần phải công minh, khách quan, mỗi một bản án phải thể hiện sự nghiêm minh của luật pháp nhưng cũng phải đem lại niềm tin cho người dân về sự công bằng của cán cân công lý.
Bảo An
Liên kết website
Ý kiến ()